Làng Tư phú quê tôi có một đoạn
của sông Thu Bồn chảy qua. Sông cho làng
nào bãi bồi, gò bồi, bến lở... Bãi bồi làm nên biềng dâu biềng bắp xanh tốt
quanh năm. Gò bồi là doi đất phù sa mới
rợi, cứ sau mỗi trận lụt làng lại dài ra
phía sông thêm một ít. Nước sông mát rượi, ngọt lịm.
Cũng bên đoạn sông này người làng tạo nên nào dốc, nào bến. Cái dốc cái bến là cửa của làng. Ai đi đâu về đâu
đều qua cửa. Lũ trẻ chúng tôi chẳng mấy khi được ra khỏi làng, cũng ngày lảng ra cửa đôi ba bận.
Ban mai, mặt trời lên phản chiếu ánh
nắng vàng ươm trên mặt sông, thuyền đánh cá của dân xóm chài khua mái dầm đuổi
cá rộn rã một khúc sông.
Trưa hè nắng nóng, sau buổi phụ
cha mẹ làm đồng về chúng tôi chỉ mong được ra bến để nhảy tòm xuống nước ngụp
lặn. Nước mát lắm, an lành lắm.
Thỉnh thoảng tôi hay trốn
mẹ theo bạn bè ra bãi sông phơi nắng, dầm mình trong
nước sông để cào hến, cào ốc quắn. Kiếm
cái ăn thì ít mà chơi thì nhiều. Trời trong, nước trong, chúng tôi thích
ngâm tay dưới nước để nhìn chỉ tay mình. To và rõ lắm.
Chiều về, bến sông đông nghịt
người - đó là lúc thư giãn. Trẻ già, gái trai đủ cả, tiếng nói tiếng cười,
tiếng trẻ con đùa giỡn râm ran... Hôm nào chúng tôi cũng mãi chơi cho đến
khi mặt trời lặn, lên khỏi mặt nước gió
đêm quất vào người lạnh cóng. Đứa nào đứa nấy co ro chạy về nhà.
Có hôm trời tối, sợ con mình bị ma gia bắt (
ma nước) mẹ tôi tất tả đi tìm.Tiếng mẹ goi thất thanh, run rẩy trải tràn trên mặt nước: M.
ơi... ơi... ơi... Con ơi ơi... ... ... ..ơi ..........................
Hôm ấy về, tôi ân lắm! tôi tự hứa từ nay sẽ về sớm, sẽ không làm mẹ lo nữa, nhưng rồi cũng chỉ ba bảy
hăm mốt ngày, đâu lại vào đấy.
Mẹ vẫn ngày ngày nương theo dòng sông, kiếm con tép con
nghêu... bòn đất lật cỏ, kiên trì một ý
nguyện, thay chồng nuôi con ăn học.
...Đêm hè trăng sáng, sông như
tấm lụa bạc trải trước hiên nhà, đôi ba đứa chúng tôi ngồi với nhau trên bãi cỏ ven bờ. Nhìn sông, lo tới ngày phải
chia xa. Rồi mai này chúng tôi sẽ sống thế nào đây khi phải xa làng, xa bến sông thân yêu này?
Tôi lên lớp mười, học
trường huyện mãi tận Vĩnh Điện, cách nhà hơn mười cây số. Mùa lụt - từ thị
trấn nhìn về quê, nước sông mênh mang, lòng quay quắt nỗi thương mẹ không ai đỡ
đần, thương em còn nhỏ, sợ nhỡ sẩy chân uống nước lụt mà chết.
Có cây lụt sớm tháng 7 năm đó,
tôi sấp ngửa vừa kịp chuyến ca nô từ Vĩnh Điện ngược sông Thu Bồn về làng. Minh
Hảo em tôi lúc đó chừng mười tuổi đang đứng dưới gò Một - nước ngập đến ống chân, em đang
cố sức cắt vội đám rau lang. Em tôi sợ nước ngập, rau chết. Đám rau
là nguồn thu, là cá, là mắm, là gạo, là sách vở cho mùa tựu trường ... Chị đi
học xa, mẹ bận làm đồng. Em tôi cố gắng níu giữ...Nhưng nếu em ở đó
thêm chừng một giờ nữa, nước sông lớn
nhanh thế này em sẽ không còn về được.Cũng may trời còn thương.
Mùa thi đại học năm ấy bạn bè xôn xao rủ
nhau đăng kí thi nơi này nơi khác với bao
nhiêu ước vọng. Tôi nộp đơn vào trường Huế. Mẹ hỏi vì sao? Tôi thưa là:
con muốn trở thành người viết. Con sẽ
học để biết viết về quê mình, về người mình. Mẹ hỏi sao không thi trường Sài Gòn hoặc Hà Nội. Tôi không dám trả lời là
tôi sợ tốn tiền của mẹ.Chừng như mẹ hiểu điều tôi không nói, nên rất nhiều lần
sau đó mẹ bảo tôi muốn thi đâu thì cứ đi, không phải lo chuyện tiền. Tôi vẫn cứ
thi trường Huế.
Chuyến đò ngang năm đó đưa tôi qua sông ra Huế với
món tiền hai trăm đồng mẹ cho( mãi sau này tôi mới biết đó là tiền mẹ vay nóng
của người ta)
Thi xong chiều ấy tôi lên tàu về
lại ngay, ở thêm một ngày là thêm tốn.
Ba ngày :cả đi về, và chi phí ăn,ở, lệ phí thi, tôi đã tiêu hết tám mươi
sáu đồng; quà tặng mẹ một bình cắm hoa rất đẹp và
bánh kẹo cho các em là tròn chẵn một trăm. Thừa một trăm đồng.
Trên đường về tôi gặp thầy Hảo,
thầy giáo dạy văn của tôi, nhà bên kia sông, thầy mắng té tát: Con kia, sao
không đi thi,.... Thầy giận lắm vì nghĩ tôi bỏ thi - Có ai đi thi mà về sớm vậy
đâu!
Ở trường cấp III, thầy Hảo vẫn khen
tôi học được, thầy đã mở cả tủ sách quí của mình rồi hướng dẫn cho tôi đọc. Tôi
thưa thầy là em đã thi xong. Thầy hỏi lại:
chắc chứ? Tôi: Dạ. Thầy nói: rứa thì được!
Thấy tôi từ Huế về mẹ hỏi như
người có lỗi: sao con về sớm thế? Hết tiền rồi à?
Khi biết tôi còn tiền mẹ bảo: sao
ngu thế hả con, sao không ở lại Huế mà chơi, biết sau này còn có dịp được đến đó nữa không!
Trong tâm hồn dễ tổn thương của
tôi, có lẽ đó là lần bị mẹ chửi, thầy mắng duy nhất mà tôi không buồn.
Đêm đến, tôi ngồi nhìn sông nghĩ về ngày phải
xa nơi này. Sông chảy đi đâu chảy hoài chảy mãi. Khi tôi đi sông có đi cùng?
Rồi cũng những chuyến đò dọc, đò
ngang đưa từng đứa chúng tôi rời bến xa làng. Không có mẹ tiễn, chỉ có sông. Đến bến bên kia, lần nào người chèo đò cũng nói: đi mạnh giỏi, ráng học nghe....khi
mô rảnh thì về!
Mấy đứa ở xa cứ lâu lâu lại gọi điện
về: mình nhớ quê, nhớ sông lắm! Có anh người
làng ra ở phố, anh mời hoạ sĩ vẽ hẳn bức tranh bến đò quê tôi ngay nơi trang trọng nhất của phòng khách.
Mùa mưa, tháng chín tháng mười âm lịch nước
sông về mênh mang, cuốn trôi lũ chuột, họ
hàng nhà sâu bọ, con trùng,... và thêm
phù sa cho đất, để năm sau mùa màng lại tốt tươi.
Mùa lụt trẻ con chúng tôi theo
người lớn đi bắt dế, bắt chim. Ướt, lạnh run lập cập, về lại tụm nhau nhai bắp
rang rau ráu... Người quê tôi đã quen lắm với lũ, nhưng là lũ tự nhiên theo mùa
theo vụ, có quy luật, theo đó con người đoán định mà ứng phó, mà thích nghi.
Sông xưa giờ biến dạng.
Từ thượng nguồn người ta phá núi đãi vàng, nước ngấm độc hoà
lẫn đất cát, mồ hôi và chắc có cả máu của phu làm vàng nữa chảy về đục ngầu, tức tửi. Nơi
con sông chảy qua làng, nhà máy cũng mọc lên. Người quê rời làng ra đi nhiều
lắm. (Thì có can chi- lại có người nơi khác đến.) Bến sông xưa giờ nước tù đọng, con tôm con cá hiếm hoi
cũng vật vờ, thoi thóp.
Mùa mưa, thuỷ điện xả lũ, nước tràn
về dữ dằn, ngập trắng đồng trắng bãi. Có người bỗng chốc bị con nước dữ
cuốn trôi hết cơ nghiệp cả đời tần tảo. Người quê tôi vốn tự trọng là thế, giờ
phải đắng cay nhận từng gói mì cứu trợ. Có ai được nhận quà
mà đau lắm, buồn lắm vậy không ?
Tôi cùng mẹ về lại bến sông quê.
Người chèo đò mới (chẳng biết có họ hàng chi với người chèo đò năm cũ) căn dặn:
chờ thuyền vô tới bờ rồi hãy bước lên, Đừng
lội xuống! Nước bẩn!
Đang mùa hè, không khí ngột ngạt,
nóng như rang trong chảo. Trời vẫn trong, nhưng trời ở xa quá. Sông quặn đau tím
bầm. Đất chông chênh chao đảo. Trời có thấu.
Bao kiếp người đã dựa vào sông mà
sống, mà sinh con đẻ cái, mà vui buồn, hạnh phúc... Sao nỡ nhẫn tâm huỷ hoại mạch sống đã nuôi mình?
Trần thị Thuỷ, mùa hè năm 2011