Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Nhớ con sông xưa

Làng Tư phú quê tôi có một đoạn của sông Thu Bồn chảy qua.  Sông cho làng nào bãi bồi, gò bồi, bến lở... Bãi bồi làm nên biềng dâu biềng bắp xanh tốt quanh năm. Gò bồi là doi  đất phù sa mới rợi, cứ sau mỗi trận lụt  làng lại dài ra phía sông thêm một ít. Nước sông mát rượi, ngọt lịm.

Cũng bên đoạn sông này người làng  tạo nên nào dốc, nào bến. Cái dốc cái bến là cửa của làng. Ai đi đâu về đâu đều qua cửa. Lũ trẻ chúng tôi chẳng mấy khi được ra khỏi làng,  cũng ngày lảng ra  cửa đôi ba bận.

Ban mai, mặt trời lên phản chiếu ánh nắng vàng ươm trên mặt sông, thuyền đánh cá của dân xóm chài khua mái dầm đuổi cá rộn rã một khúc sông.

Trưa hè nắng nóng, sau buổi phụ cha mẹ làm đồng về chúng tôi chỉ mong được ra bến để nhảy tòm xuống nước ngụp lặn. Nước mát lắm, an lành lắm.

Thỉnh thoảng tôi hay trốn mẹ theo bạn bè ra bãi sông  phơi nắng, dầm mình trong nước sông để  cào hến, cào ốc quắn. Kiếm cái ăn thì ít mà chơi thì nhiều. Trời trong, nước trong, chúng tôi  thích ngâm tay dưới nước để nhìn chỉ tay mình. To và rõ lắm.

Chiều về, bến sông đông nghịt người - đó là lúc thư giãn. Trẻ già, gái trai đủ cả, tiếng nói tiếng cười, tiếng trẻ con đùa giỡn râm ran... Hôm nào chúng tôi cũng mãi chơi cho đến khi  mặt trời lặn, lên khỏi mặt nước gió đêm quất vào người lạnh cóng. Đứa nào đứa nấy co ro chạy về nhà.
 Có hôm trời tối, sợ con mình bị ma gia bắt ( ma nước) mẹ tôi tất tả đi tìm.Tiếng mẹ goi  thất thanh, run rẩy trải tràn trên mặt nước: M. ơi... ơi... ơi... Con ơi   ơi... ... ...            ..ơi ..........................
Hôm ấy về, tôi ân lắm!  tôi tự hứa từ nay sẽ về sớm, sẽ không làm mẹ lo nữa, nhưng rồi cũng chỉ ba bảy hăm mốt ngày, đâu lại vào đấy.

Mẹ vẫn  ngày ngày nương  theo dòng sông, kiếm con tép con nghêu...  bòn đất lật cỏ, kiên trì một ý nguyện, thay chồng nuôi con ăn học.

...Đêm hè trăng sáng, sông như tấm lụa bạc trải trước hiên nhà, đôi ba đứa chúng tôi ngồi với nhau trên  bãi cỏ ven bờ. Nhìn sông, lo tới ngày phải chia xa. Rồi mai này chúng tôi sẽ sống thế nào đây  khi phải xa làng, xa bến sông thân yêu này?

Tôi lên lớp mười, học trường huyện mãi tận Vĩnh Điện, cách nhà hơn mười cây số. Mùa lụt - từ thị trấn nhìn về quê, nước sông mênh mang, lòng quay quắt nỗi thương mẹ không ai đỡ đần, thương em còn nhỏ, sợ nhỡ sẩy  chân  uống nước lụt mà chết.

Có cây lụt sớm tháng 7 năm đó, tôi sấp ngửa vừa kịp chuyến ca nô từ Vĩnh Điện ngược sông Thu Bồn về làng. Minh Hảo em tôi lúc đó chừng mười tuổi đang đứng dưới gò Một - nước ngập đến ống chân, em đang cố sức cắt vội đám rau lang. Em tôi sợ nước ngập, rau chết. Đám rau là nguồn thu, là cá, là mắm, là gạo, là sách vở cho mùa tựu trường ... Chị đi học xa,  mẹ bận làm đồng. Em tôi  cố gắng níu giữ...Nhưng nếu em ở đó thêm  chừng một giờ nữa, nước sông lớn nhanh thế này em sẽ không còn về được.Cũng may trời  còn thương.

Mùa thi đại học năm ấy bạn bè xôn xao  rủ nhau đăng kí  thi nơi này nơi khác với bao  nhiêu ước vọng. Tôi nộp đơn vào trường Huế. Mẹ hỏi vì sao? Tôi thưa là: con  muốn trở thành người viết. Con sẽ học để biết  viết về quê mình, về người  mình. Mẹ hỏi sao không thi trường Sài Gòn hoặc Hà Nội. Tôi không dám trả lời là tôi sợ tốn tiền của mẹ.Chừng như mẹ hiểu điều tôi không nói, nên rất nhiều lần sau đó mẹ bảo tôi muốn thi đâu thì cứ đi, không phải lo chuyện tiền. Tôi vẫn cứ thi trường Huế.

Chuyến  đò ngang năm đó đưa tôi qua sông ra Huế với món tiền hai trăm đồng mẹ cho( mãi sau này tôi mới biết đó là tiền mẹ vay nóng của người ta)
Thi xong chiều ấy tôi lên tàu về lại ngay, ở thêm một ngày là  thêm tốn.
Ba ngày :cả đi về, và chi phí ăn,ở, lệ phí thi, tôi đã tiêu hết  tám mươi sáu  đồng; quà tặng  mẹ một bình cắm hoa rất đẹp và bánh kẹo cho các em là tròn chẵn một trăm. Thừa một trăm đồng.

Trên đường về tôi gặp thầy Hảo, thầy giáo dạy văn của tôi, nhà bên kia sông, thầy mắng té tát: Con kia, sao không đi thi,.... Thầy giận lắm vì nghĩ tôi bỏ thi - Có ai đi thi mà về sớm vậy đâu!
Ở trường cấp III, thầy Hảo  vẫn khen tôi học được, thầy đã mở cả tủ sách quí của mình rồi hướng dẫn cho tôi đọc. Tôi thưa thầy là em đã thi xong. Thầy hỏi lại:  chắc chứ? Tôi: Dạ. Thầy nói: rứa thì được!

Thấy tôi từ Huế về mẹ hỏi như người có lỗi: sao con về sớm thế? Hết tiền rồi à?  
Khi biết tôi còn tiền mẹ bảo: sao ngu thế hả con, sao không ở lại Huế mà chơi, biết sau này còn có dịp  được đến đó nữa không!

Trong tâm hồn dễ tổn thương của tôi, có lẽ đó là lần bị mẹ chửi, thầy mắng duy nhất mà tôi không buồn.
 Đêm đến, tôi ngồi nhìn sông nghĩ về ngày phải xa nơi này. Sông chảy đi đâu chảy hoài chảy mãi. Khi tôi đi sông có đi cùng?

Rồi cũng những chuyến đò dọc, đò ngang đưa từng đứa chúng tôi rời bến xa làng. Không có mẹ tiễn, chỉ có sông. Đến bến bên kia, lần nào người chèo đò cũng nói: đi mạnh giỏi, ráng học nghe....khi mô  rảnh  thì về!


Mấy đứa ở xa cứ lâu lâu lại gọi điện về: mình nhớ quê, nhớ sông lắm!  Có anh người làng ra ở phố, anh mời hoạ sĩ vẽ hẳn  bức tranh bến đò quê tôi ngay nơi trang trọng nhất của phòng khách.

 Mùa mưa, tháng chín tháng mười âm lịch nước sông về mênh mang, cuốn  trôi lũ chuột, họ hàng nhà sâu bọ, con trùng,...  và thêm phù sa cho đất, để  năm  sau mùa màng lại tốt tươi.
Mùa lụt trẻ con chúng tôi theo người lớn đi bắt dế, bắt chim. Ướt, lạnh run lập cập, về lại tụm nhau nhai bắp rang rau ráu... Người quê tôi đã quen lắm với lũ, nhưng là lũ tự nhiên theo mùa theo vụ, có quy luật, theo đó con người đoán định mà ứng phó, mà thích nghi.

Sông xưa giờ biến dạng.

Từ thượng nguồn  người ta phá núi đãi vàng, nước ngấm độc hoà lẫn đất cát, mồ hôi và chắc có cả máu của phu  làm vàng nữa chảy về đục ngầu, tức tửi. Nơi con sông chảy qua làng, nhà máy cũng  mọc lên. Người quê rời làng ra đi nhiều lắm. (Thì có can chi- lại có người nơi khác đến.) Bến sông xưa  giờ nước tù đọng, con tôm con cá hiếm hoi cũng vật vờ, thoi thóp.

Mùa mưa, thuỷ điện xả lũ, nước tràn về dữ dằn, ngập trắng đồng trắng bãi. Có người bỗng chốc bị con nước dữ cuốn trôi hết cơ nghiệp cả đời tần tảo. Người quê tôi vốn tự trọng là thế, giờ  phải đắng cay  nhận từng gói mì cứu trợ. Có ai được nhận quà mà đau lắm, buồn lắm vậy  không ?

Tôi cùng mẹ về lại bến sông quê. Người chèo đò mới (chẳng biết có họ hàng chi với người chèo đò năm cũ) căn dặn: chờ thuyền vô tới bờ rồi  hãy bước lên, Đừng lội xuống! Nước bẩn!
Đang mùa hè, không khí ngột ngạt, nóng như rang trong chảo. Trời vẫn trong, nhưng trời ở xa quá. Sông quặn đau tím bầm. Đất chông chênh chao đảo. Trời có thấu.

Bao kiếp người đã dựa vào sông mà sống, mà sinh con đẻ cái, mà vui buồn, hạnh phúc... Sao nỡ nhẫn tâm huỷ hoại mạch sống đã nuôi mình?

Trần thị Thuỷ, mùa hè  năm 2011



2 nhận xét:

  1. Cám ơn bạn đã viết về dòng sông quê mình.

    Trả lờiXóa
  2. Có anh bạn ở Canada kể rằng bạn anh viết về sông quê nghe thương lắm. Mình lần theo đc trên Google và tìm được bài này. Xin gửi bạn chút cảm thông và tâm tình của một kẻ ly hương.

    Trả lờiXóa